Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng Giang
Đề Bài: Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng Giang
Thơ của Huy Cận lại vô cùng hàm súc, giàu chất suy tưởng triết lý. Trước Cách mạng, thơ của ông nhuốm đầy nỗi buồn mênh mang, da diết. Nỗi buồn đó dường như vô cớ nhưng xét cho cùng, đấy lại là nỗi buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Sau Cách mạng, các tác phẩm của ông đã có sự hòa điệu giữa con người và thiên nhiên.
Liên quan: Sơ đồ tư duy Tràng Giang
Khi viết về ông, các tác giả trong cuốn Thi nhân Việt Nam có viết: Có người muốn làm thơ phải tìm những cảnh nên thơ. Huy Cận không thế. Nguồn thơ đã sẵn trong lòng thời thi nhân không cần có nhiều chuyện. Thật vậy, các tác phẩm của Huy cận dường như đã được ông giấu hết tâm tư, suy nghĩ, tình cảm của mình vào thiên nhiên, hòa quyện nỗi lòng của mình với trời mây sông nước, tiêu biểu là thi phẩm Tràng giang – đặc biệt là ở khổ 4.
Nếu như trong ba khổ đầu, Huy Cận đã sử dụng biện pháp tả cảnh ngụ tình để đưa những kiếp người bất hạnh, thấp cổ bé họng vào bài thơ qua cảnh vật nơi bến bờ con sông. Thì giờ đây, ở khổ cuối, ông đã “đặt” một phần của sự cô độc cùng với nỗi nhớ quê nhà da diết của mình lên một tầng thiên nhiên cao hơn, rộng lớn hơn – trời mây: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Một câu thơ chỉ với bảy chữ thôi mà đã mở ra trước mắt người đọc một cảnh tượng vô cùng hùng vĩ, tráng lệ nhưng cũng có phần khiến ta bất giác phải choáng ngợp bởi hình ảnh núi mây. Thật ra, núi mây ở đây không có nghĩa là núi và mây mà nó chính là một ngọn núi to lớn, sừng sững do thiên nhiên tạo ra bằng cách gom những đám mây lại với nhau.
Liên quan: Phân tích bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận
Từ láy lớp lớp đã góp phần tạo cảm giác mây như dày đặc hơn, nhiều tầng lớp hơn khiến cho núi mây có màu bàng bạc, huyền ảo như mộng. Không những thế, trong câu thơ còn xuất hiện động từ đùn có tính gợi tả vô cùng cao, được Huy Cận lấy cảm hứng từ ý thơ của Đỗ Phủ:
Lưng trời sóng lượn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Sự kết hợp khéo léo giữa hai cụm từ đùn và lớp lớp không chỉ làm không gian như được mở rộng hơn, cao hơn, rộng hơn và thậm chí là sâu hơn. Mà nó còn khiến nhân vật trữ tình đã nhỏ bé, cô độc lại càng bé nhỏ hơn biết nhường nào! Ngoài ra, hình ảnh núi mây của Huy Cận còn gợi ra cho đọc giả một sự liên tưởng: liệu có phải tác giả đã mượn hình ảnh những đám mây dày đặc, xếp chồng xếp lớp lên nhau để rồi nói lên, bộc tâm trạng sầu thảm cùng nỗi buồn vạn kỉ của mình.
Đọc thêm: Cảm nhân khổ 2 bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ bức tranh sông nước.
Giữa không gian bao la, rộng lớn và tưởng chừng như yên ắng ấy lại đột nhiên xuất hiện một cánh chim nhỏ bé. Thoạt đầu, cánh chim nhỏ này xuất hiện như chỉ để tô điểm thêm cho sự hùng vĩ, kì ảo của cảnh sắc thiên nhiên. Đối lập với sự kì vĩ là cánh chim ấy lại nhỏ nhoi và cô độc đến độ: Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Hình ảnh cách chim xuất hiện trong thơ văn Việt Nam nói riêng và phương Đông nói chung là không hề xa lạ. Ví như, hình ảnh cánh chim trong thơ cổ thời Đường bay về chốn vô tận, vô định gợi cảm giác xa xăm, phiêu dạt, chia lìa:
Chúng điểu cao phi tận – Lí Bạch
Thiên sơn điểu phi tuyệt – Liễu Tông Nguyên
Hay cánh chim bay mỏi mệt vì nhớ quê hương trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan:
Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa, khách buớc dồn
Và kể cả cánh chim xuất hiện trong thơ của Chế Lan viên- một nhà thơ cùng thời với Huy Cận cũng có viết:
Chao ôi! mong nhớ! Ôi mong nhớ!
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn.
Mặc dù vậy, ta có thể dễ dàng nhận thấy được sự khác biệt của cánh chim
trong thơ Huy Cận so với cánh chim trong thơ của các nhà thơ khác. Cánh chim trong thơ của huy cận không hoàn toàn tĩnh lặng, dường như ta cảm thấy được cánh chim ấy đang đập cánh chao nghiêng giữa một không gian bao la rộng lớn.
Đọc thêm: Mở bài kết bài Sóng đậm chất trữ tình
Nhưng sự chao nghiêng này lại không toát lên được nét phóng túng của một cánh chim tự do. Chú chim nhỏ nghiêng đôi cánh kéo bóng chiều cùng chú sa xuống bao phủ, chiếm đóng cả một bầu trời rộng lớn hay lại là chiếc bóng chiều đang đè nặng, dồn ép lên đôi cánh nhỏ bé, yếu ớt kia?
Tâm trạng của Huy Cận lúc bấy giờ cũng vậy. Có lẽ ông sẽ cảm thấy hoang mang lắm, bơ vơ lắm, lẻ loi và đơn độc lắm. Vào những giây phút quyết định đó, Huy Cận đã tìm được câu trả lời cho riêng mình:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Hoài Thanh, Hoài Chân có viết trong cuốn Thi nhân Việt Nam: Huy Cận đi lượm lặt những chút buồn rơi rác rồi để sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi bình thường thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu ngọc.
Thật vậy, chỉ với hình tượng đối lập giữa sự nhỏ bé, đơn độc của một cánh chim và sự bao la, rộng lớn của không gian, cũng đủ để tâm hồn Huy Cận đồng cảm với cánh chim ấy và trào dâng một nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương vô cùng mãnh liệt. Cảm xúc ấy cứ cồn cào và day dứt trong lòng thi sĩ từng đợt từng đợt như gợn sóng trong lòng ông.
Đọc thêm: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc đầy đủ
Dợn dợn – cách sử dụng từ ngữ vô cùng khéo léo và linh hoạt đến lạ thường!Thay vì dùng dờn dợn, ông lại sáng tạo ra một từ láy mới cho riêng mình: dợn dợn. Liệu có phải với hai thanh nặng đã kéo nổi buồn của ông rơi vào hố sâu tuyệt vọng – nỗi tuyệt vọng trước cảnh nước mất nhà tan. Từ dợn dợn ấy vừa tả những con sóng dợn trên mặt nước lại còn vừa ám chỉ những con sóng dợn trong lòng nhà thơ. Bởi lẽ đó có người nói về Tràng giang quả thật không sai. Là Tràng giang, khổ nào cũng dập dềnh sóng nước. Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn.
Câu thơ cuối cùng trong khổ bốn của Tràng giang được Huy Cận dựa trên nền thơ của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu: Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Mặc dù lấy ý từ thơ của Thôi Hiệu nhưng Huy Cận lại có sự phát triển hơn trước: người xưa chỉ đến khi nhìn thấy khói trắng mới nhớ đến nhà; còn Huy Cận với tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng, tình cảm ấy trong ông cứ dạt dào, trào dâng ngày một nhiều thêm mà chẳng cần đến bất kì chất xúc tác nào!
Khổ thơ cuối của bài Tràng giang không chỉ là nỗi buồn, nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ mà nó còn chất chứa một sự khát khao, hi vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn, xã hội hạnh phúc hơn. Xuân Diệu đã từng nhận xét về thơ Huy Cận: Thơ Huy Cận dường như ngầm chất chứa cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng Giang
Đọc thêm: Sơ đồ tư duy Tây Tiến ngắn gọn dễ hiểu
Originally posted 2019-03-07 23:04:54.
Để lại một phản hồi